Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng

09-09-2014
(Xây dựng)-Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 1469/QĐ-TTg ngày 22/8/2014 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Phát triển sản xuất vật liệu xây dựng hướng tới phát triển ổn định, bền vững trên cơ sở sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường, đáp ứng nhu cầu sử dụng trong nước và tham gia xuất khẩu.

 


Phát triển sản xuất gạch không nung

Phát triển xi măng trên cơ sở cân đối cung cầu

Theo dự báo nhu cầu xi măng trong nước đến năm 2020 là 93 triệu tấn. Sử dụng công nghệ tiên tiến, tự động hóa cao, tiết kiệm tối đa nguyên, nhiên liệu, năng lượng. Yêu cầu các nhà đầu tư từ năm 2015 phải đầu tư đồng bộ hệ thống tận dụng nhiệt khí thải lò nung để phát điện và sử dụng nhiên liệu thay thế. Qua đó, từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm xi măng, đa dạng hóa các chủng loại xi măng, đáp ứng các nhu cầu xây dựng như: Xi măng mác cao, xi măng cho công trình biển, xi măng giếng khoan dầu khí, xi măng bền xâm thực và các loại xi măng khác.

Trong giai đoạn 2020 – 2030, đầu tư sản xuất xi măng theo Quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản làm xi măng. Nghiên cứu sử dụng phế thải làm nguyên, nhiên liệu cho sản xuất xi măng; nghiên cứu sản xuất các chủng loại xi măng có tính năng đặc biệt, xi măng tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường; nghiên cứu giảm tiêu hao năng lượng, nhiên liệu và nhân công trong sản xuất xi măng.

Không mở rộng cơ sở sản cuất gạch gốm ốp lát đến năm 2015

Về vật liệu ốp lát (gạch ốp lát và đá ốp lát tự nhiên), tổng công suất thiết kế các nhà máy sản xuất vật liệu ốp lát đến năm 2015 khoảng 450 triệu m2/năm, đến năm 2020 khoảng 570 triệu m2/năm. Đối với đá ốp lát tự nhiên, sử dụng công nghệ khai thác hiện đại, hạn chế tối đa việc nổ mìn khai thác. Đầu tư thiết bị chế biến hiện đại có thể cưa cắt các tấm đá kích thước lớn, nâng cao tỷ lệ thu hồi sản phẩm; có hệ thống mài và đánh bóng tự động.

Từ nay đến năm 2015 tiếp tục đầu tư mở rộng và đầu tư mới các cơ sở chế biến đá ốp lát để đạt tổng công suất thiết kế trên toàn quốc đạt 15 triệu m2/năm. Giai đoạn 2016 – 2020 tiếp tục đầu tư mở rộng và đầu tư mới các cơ sở chế biến đá ốp lát để có tổng công suất thiết kế trên toàn quốc đạt 30 triệu m2/năm (chiếm tỷ trọng khoảng 5% tổng công suất thiết kế vật liệu ốp lát) việc đầu tư mới các cơ sở khai thác phải gắn với cơ sở chế biến sâu.

Khuyến khích các cơ sở sản xuất đá ốp lát liên kết với các cơ sở sản xuất bột đá các bon nát can xi nhằm tận dụng nguyên liệu dư thừa, giảm phế thải và giảm ô nhiễm môi trường. Khuyến khích các cơ sở sản xuất đá ốp lát liên kết với các cơ sở sản xuất bột đá các bon nát can xi nhằm tận dụng nguyên liệu dư thừa, giảm phế thải và giảm ô nhiễm môi trường.

Đối với gạch gốm ốp lát, có thế sản xuất nhiều loại sản phấm với kích thước lớn, đảm bảo các tiêu chuấn, quy chuấn kỹ thuật về môi trường.

Từ nay đến năm 2015 không đầu tư mở rộng và đầu tư mới các cơ sở sản xuất gạch gốm ốp lát. Giai đoạn 2016 – 2020 tiếp tục đầu tư mở rộng và đầu tư mới các cơ sở sản xuất gạch gốm ốp lát để đạt tổng công suất thiết kế trên toàn quốc đạt 570 triệu m2/năm. Chuyên môn hóa khâu sản xuất nguyên liệu cho gạch gốm ốp lát.

Hạn chế sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung

Với gạch đất sét nung, không đầu tư các loại lò thủ công cải tiến, lò đứng liên tục, lò vòng (lò hoffman) sử dụng nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí). Khuyến khích đầu tư công nghệ sản xuất gạch đất sét nung kích thước lớn, độ rỗng cao để tiết kiệm tài nguyên, giảm ô nhiễm môi trường.

Đối với các cơ sở đang sản xuất gạch đất sét nung bằng lò tuy nen, phải tiếp tục đầu tư hoàn thiện và cải tiến công nghệ để giảm tiêu hao nguyên, nhiên liệu, tiết kiệm tài nguyên; đối với các tỉnh miền Nam khuyến khích đầu tư công nghệ lò tuy nen sử dụng nhiên liệu trấu và mùn cưa.

Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải xây dựng và ban hành lộ trình chấm dứt hoạt động của các loại lò sử dụng công nghệ lạc hậu. Cụ thể, các tỉnh đồng bằng, thành phố trực thuộc Trung ương; khu vực thị xã, thị tứ, khu vực gần khu dân cư, gần khu vực canh tác trồng lúa và hoa màu của các tỉnh còn lại chậm nhất phải chấm dứt hoạt động vào trước năm 2016 với lò thủ công, thủ công cải tiến và chậm nhất vào trước năm 2018 với lò đứng liên tục, lò vòng sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Tùy theo điều kiện cụ thể, khuyến khích các địa phương chấm dứt hoạt động đối với các lò vòng không sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Các cơ sở sản xuất nằm ở khu vực các xã thuộc huyện miền núi của các tỉnh xây dựng lộ trình chấm dứt hoạt động chậm nhất hết năm 2017 với lò thủ công, thủ công cải tiến và chậm nhất vào năm 2020 với lò đứng liên tục.

Ông Lê Văn Tới - Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng cho biết: “Trong những năm qua, đầu tư phát triển VLXD đã đáp ứng được cơ bản nhu cầu về VLXD trong nước về chất lượng, mẫu mã, đặc biệt là các sản phẩm chủ yếu, đã có một phần xuất khẩu; tổng sản lượng tương đối lớn, song về công nghệ còn đan xen giữa công nghệ tiên tiến và công nghệ lạc hậu, giữa quy mô lớn và quy mô nhỏ. Nhiều dây chuyền sản xuất VLXD đã lạc hậu, mức độ tiêu hao nhiên liệu, gây ô nhiễm môi trường cao. Chất lượng một số sản phẩm chưa ổn định, chi phí sản xuất cao, dẫn đến sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế thấp. Việc quản lý khai thác tài nguyên để sản xuất VLXD chưa chặt chẽ, một số nơi còn lãng phí tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường. Việc sản xuất, sử dụng gạch đất sét nung vẫn là chủ yếu, đặc biệt là sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ công, thủ công cải tiến, gây ô nhiễm môi trường và lãng phí tài nguyên.

Trong số các loại VLXD chủ yếu, trước đây chỉ mới có xi măng được quy hoạch chặt chẽ trên cơ sở cung cầu. Các loại VLXD khác, trong đó có gạch ốp lát, sứ vệ sinh, kính xây dựng …chỉ được cảnh báo hay khuyến cáo đã vượt công suất, nên dừng đầu tư. Vì chưa có quy định rõ ràng việc hạn chế đầu tư, nên tình trạng dư thừa không được kiểm soát. Quyết định số 1469/QĐ-TTg sẽ phát huy những mặt tích cực và khắc phục những tồn tại.

Trên cơ sở Quy hoạch tổng thể phát triển VLXD đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đã được phê duyệt, trong thời gian tới Bộ Xây dựng sẽ nghiên cứu, xây dựng để ban hành theo thẩm quyền hoặc trình TTg Chính phủ ban hành quy hoạch phát triển đối với các chủng loại VLXD chủ yếu khác ngoài xi măng.

Thành Luân - Báo Xây dựng

TIN MỚI ĐĂNG